Thông tin mô tả
Mô tả: Cây thảo sống nhiều năm, cao 60-110cm. Rễ củ hình trụ dài. Thân có 4 cạnh, phình lên ở các đốt. Lá mọc đối, hình trái xoan bầu dục cỡ 15x5cm, nhọn hai đầu, mép lượn sóng, có lông thưa hay không lông; gân phụ 5-7 cặp; cuống ngắn 1-3cm. Cụm hoa hình bông mọc ở ngọn thân hoặc đầu cành; hoa ở nách những lá bắc. Quả bế hình bầu dục, chứa một hạt hình trụ. Hoa tháng 5-9, quả tháng 10-11. Bộ phận dùng: Rễ, củ - Radix Achyranthis Bidentatae, thường gọi là Ngưu tất. Nơi sống và thu hái: Cây nhập, trồng được cả ở núi cao lẫn đồng bằng. Thu hái vào mùa đông xuân, phơi tái rồi ủ đến khi nhăn da (6-7 ngày), xông diêm sinh, sấy khô. Dùng sống hoặc tẩm rượu sao. Thành phần hoá học: Rễ củ chứa saponin triterpen, genin là acid oleanolic, các sterol ecdysteron, inokosteron. Tính vị, tác dụng: Ngưu tất có vị đắng, chua mặn, tính bình; có tác dụng bổ can thận, mạnh gân cốt, phá ứ huyết, tiêu ung độc. Công dụng: Chống viêm, hạ cholesterol máu, hạ áp, gây co bóp tử cung. Tuệ Tĩnh đã viết về Ngưu tất: - Ngưu tất cũng như rễ Cỏ xước - Tính bình, chua, đắng, khoẻ gân cốt - Chữa khớp, tê liệt, mạnh dương tinh - Điều huyết, tiểu thông, trừ cơn sốt. Ngày nay, Ngưu tất dùng chữa thấp khớp, đau lưng, bế kinh, kinh đau, huyết áp cao, bệnh tăng cholesterol máu, đái buốt ra máu, đẻ khó hoặc nhau thai không ra, sau đẻ ứ huyết, chấn thương tụ máu, viêm họng. Ngày dùng 6-12g, sắc uống. Dân gian cũng dùng Ngưu tất chữa sốt rét lâu ngày không khỏi.